Vô
sinh là vấn đề ngày càng được quan tâm ở tất cả các nước trên thế giới.
Ở Việt Nam tỷ lệ vô sinh khoảng 13%, và là một trong những vấn đề được
xã hội và ngành y tế quan tâm đặc biệt.
Vô sinh là gì?
Là
tình trạng không có thai sau một năm chung sống vợ chồng mà không áp
dụng một biện pháp tránh thai nào. Ngoài thời gian một năm như trên, với
các trường hợp bất thường như vô kinh, rong kinh, kinh thưa, chồng liệt
dương... thì cần khám và điều trị sớm hơn. Vô sinh được chia thành vô
sinh nguyên phát (vô sinh I) là vô sinh ở phụ nữ chưa có thai lần nào,
hay vô sinh thứ phát (vô sinh II) là vô sinh ở phụ nữ đã có thai ít nhất
một lần.
Nguyên nhân vô sinh
Người
ta chia vô sinh làm 2 nhóm, vô sinh nam và vô sinh nữ. Theo một số
nghiên cứu, tỷ lệ vô sinh giữa nam và nữ tương đương nhau khoảng 40%, và
20% nguyên nhân chung của cả vợ và chồng. Còn một số trường hợp khác,
vô sinh mà không tìm được nguyên nhân. Qua một số nghiên cứu tại bệnh
viện Phụ sản Trung ương, tỷ lệ vô sinh nữ khoảng 54,5%, vô sinh nam
chiếm 35,6%, vô sinh không rõ nguyên nhân chiếm 9,9%.
- Nguyên nhân vô sinh phía nữ:
Rối loạn phóng noãn, không phóng noãn:
có nhiều nguyên nhân gây rối loạn phóng noãn như buồng trứng đa nang,
lạc nội mạc tử cung, rối loạn nội tiết, một số bệnh bẩm sinh... Rối loạn
sự thâm nhập của tinh trùng: do viêm nhiễm ở âm đạo, cổ tử cung hay
niêm mạc tử cung gây nên rối loạn này.
Rối loạn sự thụ tinh:
sự rối loạn này có thể do bất thường tại noãn làm tinh trùng không thể
xâm nhập vào noãn, hay do chất lượng tinh trùng không tốt cũng ảnh hưởng
đến quá trình thụ tinh.
Rối
loạn quá trình làm tổ của trứng: thường do niêm mạc tử cung viêm, không
phát triển tốt, do các chấn thương ở niêm mạc tử cung gây dính, hay do
bất thường tử cung, u xơ tử cung, polype buồng tử cung gây ra.
Ngăn
cản sự gặp của tinh trùng và noãn: thường do viêm tắc vòi tử cung, làm
ngăn cản quá trình tinh trùng gặp noãn. Đây là nhóm nguyên nhân có thể
dự phòng tốt khi chúng ta hạn chế được phá thai ngoài ý muốn, thực hiện
vô khuẩn tốt trong các thủ thuật...
- Nguyên nhân vô sinh phía nam:
Do sự rối loạn xuất tinh:
thường gặp liệt dương, có thể không xuất tinh hay khó xuất tinh. Các
nguyên nhân này thường do tâm lý, do chấn thương hay một số bệnh hay
thuốc gây nên.
Do đường dẫn tinh:
thường do tắc hay bán tắc đường dẫn tinh, làm không có hoặc rất ít tinh
trùng khi xuất tinh, có thể do bẩm sinh hoặc mắc phải. Tình trạng này
thường gặp do bệnh nhầy nhớt, hay do viêm nhiễm đường sinh dục gây nên
(bệnh lậu, giang mai, Chlamydia, lao, hay các bệnh nhiễm khuẩn khác...).
Đối với các bệnh này, có thể dự phòng bằng tuyên truyền giáo dục cho
các đối tượng có quan hệ tình dục lành mạnh hay có bảo vệ...
Do số lượng hay chất lượng tinh trùng giảm:
có thể do bẩm sinh hay do các bệnh mắc phải (viêm tinh hoàn do quai bị,
do các vi khuẩn khác, chấn thương tinh hoàn, một số thuốc, hóa chất hay
một số nghề nghiệp ảnh hưởng...). Cần lưu ý các trường hợp giãn tĩnh
mạch thừng tinh, bệnh không rõ nguyên nhân nhưng ảnh hưởng rất nhiều tới
chất lượng cũng như số lượng tinh trùng, cần can thiệp càng sớm càng
tốt.
Do
các bệnh vùng dưới (vùng điều tiết các hóc môn sinh sản) và tuyến yên
có thẻ bệnh bẩm sinh hay mắc phải (u tuyến yên) ảnh hưởng đến chức năng
của tinh hoàn.
![]()
Một số phương pháp trong hỗ trợ sinh sản
Sau
khi các cặp vợ chồng bị vô sinh được khám và làm các thăm dò để tìm
nguyên nhân, bác sỹ sẽ đưa ra các phương pháp hỗ trợ cho từng trường hợp
cụ thể.
Thứ nhất,
kích thích sự phát triển của nang noãn: sử dụng thuốc uống hoặc tiêm
tùy trường hợp cụ thể, sau đó người phụ nữ được theo dõi nang noãn đến
khi nang noãn phát triển đến nột mức độ nhất định nào đó, thường nang
noãn có đường kính 18-22mm.
Thứ hai,
làm rụng trứng: khi nang noãn đạt đến kích thước cho phép, bác sỹ có
thể cho thuốc để làm cho nang noãn chín và vỡ, tạo ra một nang trứng có
thể thụ tinh.
Thứ ba,
thụ tinh nhân tạo: trường hợp chất lượng tinh dịch của người chồng
không tốt, hay do người vợ, bác sỹ có thể cho làm thụ tinh nhân tạo.
Hiện nay người tiến hành lọc rửa tinh dịch để chọn lấy tinh trùng sống
và khỏe, sau đó bơm thẳng vào buồn tử cung người vợ. Như vậy sẽ tránh
được tinh trùng bị ảnh hưởng trong âm đạo và khó thâm nhập vào cổ tử
cung của người phụ nữ.
Đặc
biệt trong trường hợp người chồng không có tinh trùng, có thể làm thụ
tinh nhân tạo với tinh trùng của người cho. Nhưng trường hợp này cần có
những thủ tục riêng và tuân thủ pháp luật.
Thứ tư,
thụ tinh trong ống nghiệm: là một tiến bộ lớn của ngành y tế, việc này
đem lại cho nhiều người phụ nữ vô sinh tưởng như không thể có thai đã có
thể sinh con.
Thụ tinh trong ống nghiệm:
người phụ nữ được dùng thuốc kích thích để có một số nang noãn, thường
cần có số lượng nang lớn (khoảng 10 nang) sau khi số nang noãn này đủ
lớn sẽ được chọc hút nang, và tiến hành cho tiếp xúc với tinh trùng để
tiến hành thụ tinh. Sau khi thụ tinh, noãn được nuôi cấy trong phòng thí
nghiệm và phôi được đặt vào buồng tử cung của người phụ nữ. Các phôi
còn lại có thể trữ lạnh để dùng cho lần sau. Trong một số trường hợp
người phụ nữ không còn noãn như: suy buồng trứng, bị cắt buồng trứng,
mãn kinh... trong một số điều kiện nhất định có thể xin noãn của người
khác, nhưng việc này cần tuân thủ theo đúng pháp luật của từng nước.
Thứ năm,
các can thiệp bằng phẫu thuật nội soi: nội soi gỡ dính và tạo hình loa
vòi tử cung trong các trường hợp dính tắc vòi do viêm hay do lạc nội tử
cung. Có thể nội soi để cắt góc buồng trứng, hay làm giảm nang trứng
trong các trường hợp buồng trứng đa nang...
Thứ sáu,
thuốc kích thích sản sinh tinh trùng: trong một số trường hợp tinh
trùng giảm về số lượng và chất lượng, bác sỹ có thể dùng thuốc làm tăng
số lượng và chất lượng tinh trùng. Tuy nhiên, chế độ nghỉ ngơi, ăn uống
và sinh hoạt là rất quan trọng. Nhưng để cải tạo tinh dịch là rất khó
khăn, vì chu kỳ sản sinh tinh trùng là 90 ngày.
Thứ bảy,
một số các can thiệp khác: phẫu thuật ghép tử cung trong một số trường
hợp tử cung đôi, nong dính buồng tử cung bằng soi buồng tử cung, bóc
nhân xơ tử cung...
|
(Theo Sống mới) |
Việt Báo (Theo_24h)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét